Cây mơ là cái cây hoa sở hữu sắc thái mùa Xuân, hoa nở đúng vào dịp
Xuân về, Tết đến. Cây ra hoa vào cuối mùa đông, quả chín vào tháng 3,
tháng 4, mặt ngoài quả có lông tơ mượt như nhung. lúc còn xanh, quả mơ
có sắc lục xanh; khi chín thì sắc vàng đậm, mùi thơm đặc thù dễ chịu. Mơ
rất giàu dược tính, còn là các vị thuốc xuân - hè.
>>>>tam that bac tuoi
Được Tìm hiểu cao
các
phòng ban của cây mơ, nhất là quả, được sử dụng khiến thuốc chỉ ho, chỉ
khát, sinh tân dịch, chữa đau cổ và rộng rãi chứng bệnh khác nữa. Đông y
gọi quả mơ là mai tử, vị chua, tính bình. Mai tử vào các kinh can, tì,
phế, đại tràng. Mơ xanh gọi là thanh mai, lúc ngâm rượu gọi là thanh mai
tửu. Mơ muối gọi là diêm mai hay bạch mai (vì có lớp muối ngoài màu
trắng). Bạch mai với tác dụng thăng bằng sự thẩm thấu giữa tế bào và
máu, kích thích ăn ngon.
các
y thư cổ còn nhắc ô mai, bạch mai đều sở hữu vị chua nhưng ô mai tương
đối chát, tính ấm, không độc; còn bạch mai tương đối mặn, tính bình. Ô
mai liễm truất phế, sáp trường, trừ phiền nóng, khô mồm, chữa bệnh ho,
bệnh lỵ lâu ngày ko khỏi, bệnh tê liệt, đau mình mẩy. Bạch mai thanh
nhiệt, giải độc, chữa đau cổ, sát khuẩn, lúc dùng bỏ hột, lấy giết thịt
sao qua.
Quả mơ chín sau lúc thu hái, được chế biến thành ô mai
(mơ đen) hay bạch mai (mơ trắng) tùy theo cách thức chế biến. khi kể về
công dụng của ô mai, Hải Thượng Lãn Ông mang phân tích: Tạng truất phế
sắc trắng, là bẩm thụ khí của hành Kim. Nó như cái tán, cái lọng chở che
cho các tạng khác, chẳng thể chịu bất cứ một vật gì khiến cho trở lực.
Tì là gốc sinh đờm. phế truất là đồ chứa đờm. nếu đờm ở phế truất đa
dạng thì khí nghịch lên mà gây thành ho. truất phế là chỗ chủ chốt, lối
vào của toàn thân, không chỗ nào quan trọng hơn chỗ đấy. cho nên, bệnh
phế truất khí nghịch, không thể không mua cách trị gấp. Ô mai có vị
chua, tính liễm, mang thể thăng, với thể giáng, giúp thuận khí chỉ khái
(trừ ho), tiêu đờm. Ô mai thành ra giữ vai trò chủ yếu trong phổ thông
bài thuốc chữa ho, nhất là ho mãn tính, ho dai dẳng lâu ngày làm phế âm
hư, miệng họng khô, cổ họng ngứa, nóng rát, khản - mất tiếng…
Trong
giết thịt quả ô mai có 27% axít (axít citric, axít tartric), caroten,
vitamin C, vitamin B1, tanin, lycopen, pectin, peroxydase, urease... có
tác dụng kích thích quá trình chuyển hóa ôxy trong tế bào làm tế bào
chóng được phục hồi, chậm lão hóa.
Ô mai hay bạch mai đã được
nghiên cứu, lớn mạnh, đúc kết kinh nghiệm chữa bệnh trong các y văn như
nước ép ô mai dùng chữa khát, trừ đờm, chữa bệnh thương hàn, phiền hot,
bệnh hư lao, hot trong xương. Ô mai liễm phế truất, sáp trường tán được
ác nhục lại sát khuẩn, được tiêu dùng để chữa những bệnh tả lỵ lâu ngày.
những bài thuốc từ ô mai, bạch mai
Trị băng huyết: Lấy ô mai nhục (thịt quả) 7 quả. Đốt tồn tính. Tán nhỏ, uống mang nước cơm ngày 3 lần.